Sau khi Zangthalpa kể câu truyện “Trái tim và chim vàng anh” rất nhiều người trong pháp hội đều cảm thấy trong lòng trào dâng một sự cảm phục sâu sắc và quyết tâm thực hành hạnh Bồ tát để giúp đỡ người khác. Tuy vậy, trong quá trình thực hành hạnh Bồ tát của mình, không phải ai cũng đã đủ trí tuệ và đủ thiện xảo để có thể giúp người khác một cách đúng đắn.
Ví dụ như trong pháp hội, có cậu bé 3 tuổi Nadhi nọ, thấy một bé gái tên là An Thuỷ chơi trò chơi ngắm mặt trời trong gương, mà cậu biết là chơi lâu sẽ hại đến mắt cô bé. Với mong muốn giúp đỡ, cậu chạy đến và giằng món đồ chơi trong tay cô bé. Nhưng cậu không hề biết rằng, cô bé An Thủy vốn rất nhạy cảm, vì hành động ấy của Nadhi mà cô đã thút thít khóc cả buổi liền. Hay như cô gái Saraswati đang ngồi chăm chú nghe ở dưới gốc cây. Vốn là một cô gái tốt bụng, một lần đi thăm người ốm bệnh nặng, nghĩ người này khó qua khỏi, trong lòng cô nổi lên một sự cảm thương sâu sắc. Cô bèn nói với người ấy cách chuẩn bị cho một cái chết bình an. Với một động cơ trong sáng và mong muốn giúp đỡ người khác nhưng cô không hề biết rằng cô đã làm người đó kinh hoảng. Bởi đối với một người thông thường khi bước đến ngưỡng cửa của cái chết thì điều mà họ sợ hãi nhất chính là ai đó nhắc rằng họ sẽ chết.
Zangthalpa biết được điều đó, với lòng bi mẫn ông tiếp tục nói trong sự chăm chú của tất cả mọi người:
Bạn yêu quý!
Trong mỗi chúng ta, vốn sẵn có hạt giống Bồ đề, còn gọi là Phật tính hay Bản tính tự nhiên. Khi ta còn vô minh, Phật tính tạm thời bị che mờ, ta bị ngã chấp làm luẩn quẩn trong vòng luân hồi và đau khổ bởi tham sân si. Khi chứng ngộ được Bản tính tự nhiên, Phật tính hiển lộ rõ ràng thì ngã chấp và đau khổ biến mất, luân hồi kết thúc, đó gọi là giác ngộ. Để giác ngộ và giúp được người khác thoát khỏi khổ đau thì phải trải qua quá trình tu tập. Trong quá trình đó, Bồ đề tâm là điều cốt yếu mà chúng ta phải thực hành. Bồ đề tâm chính là mong muốn giúp mình đạt giác ngộ và giúp những người khác giác ngộ.
Hẳn bạn còn nhớ tôi đã bắt đầu đi giúp người khác từ lời khuyên của Đức Quán Thế Âm trong một giấc mơ. Khi đó, tôi cũng gặp những bối rối và khó khăn trong quá trình đi giúp mọi người. Một thời gian sau lại có chuyện khác xảy ra với tôi.
Trong một chuyến du lịch đến vùng cao nguyên nọ, tôi đi bộ cả nửa ngày để thăm một cái hồ thiêng giữa lòng 2 quả núi. Người ta đồn rằng đây là chiếc hồ đã được nữ Phật Tara ban phước. Nước hồ có màu xanh trong vắt như một viên ngọc như ý, ban cho mọi người đến tắm ở hồ điều họ ước nguyện. Đến nơi, tôi đã thấm mệt, thời tiết lại mát mẻ vô cùng dễ chịu, tôi nằm thiếp đi ngay bên hồ. Bầu trời trong vắt và gió thổi mát rượi.
Đang nằm ngủ như vậy tôi bỗng nghe một âm thanh lớn như sấm. Lẽ nào trời sắp mưa? tôi tự hỏi mình. Nhưng không phải như vậy, bầu trời vẫn trong xanh không một gợn mây. Tôi nhìn ra giữa hồ thì thấy âm thanh đó phát ra từ một cột sóng cuộn lên cao hẳn so với mặt nước. Trên cuộn sóng là bà mẹ của chúng sinh, Đức Yeshe Tsogyal, Biển Trí Tuệ Chiến Thắng, từ bi và rạng rỡ. Bà ngồi trong một quầng sáng ngũ sắc và cột sóng đưa bà từ từ tiến về phía tôi. Tôi chắp tay lại đảnh lễ bà và hỏi:
– Hỡi người mẹ vĩ đại của các thành tựu giả, xin hãy ban cho đứa con tu hành đơn độc này một lời chỉ dạy. Điều gì con cần lưu ý trong quá trình đi giúp đỡ mọi người và học bài học của chính mình? Bà mỉm cười nhìn tôi với ánh mắt từ bi rồi nói:
– Đứa con yêu quý của ta, con là người thầy cho sự giác ngộ của chính mình. Bởi những kinh nghiệm của con trong đời này và các đời trước đã tạo ra con của ngày hôm nay – một đứa con luôn được yêu thương – với rất nhiều hiểu biết ở bên trong.
Con đường của những người thầy cổ xưa đều tuyệt đẹp, nhưng chỉ có con trong thời điểm hiện tại mới có thể thực hành chúng và làm chúng trở nên phù hợp với thế giới hiện đại của con. Tất cả trí tuệ của mọi bậc đạo sư ở mọi thời đại, đều có sẵn ở trong con. Hãy tập trung vào những gì con hiểu rõ bằng cả trái tim – trong cuộc đời này – và tin vào sự hướng dẫn bên trong. Bởi vì con phải dạy người khác bằng chính các kinh nghiệm thân thuộc của mình. Hãy mang những gì con đã học được – nhớ là chỉ trong đời này – và bắt đầu tạo ra cách dạy của riêng mình, để giúp đỡ mọi người. Khi con làm điều đó, con sẽ khai mở những gì con đã biết trong các đời trước, và đủ khả năng để tích hợp chúng với các giáo lý của con.
Nhưng ta cần cảnh báo con, luôn phải cẩn thận với ảo tưởng về chính mình. Có thể điều này sẽ không xảy ra với con, nhưng sự cẩn thận thì luôn cần thiết, hơn là để bị ảo tưởng về chính mình đánh gục. Dù có nhiều hiểu biết, con không được dạy người khác nhiều hơn những gì con đã thực chứng được. Hãy giúp người khác chỉ bằng những gì mình đã kinh nghiệm, như vậy lời nói và hành động của con mới đủ sức mạnh để giúp người.
Trong quá trình đi giúp người khác, mỗi khi đạt được kết quả tốt và nhận được sự kính trọng… con hãy cảm thấy biết ơn thay vì cảm thấy hài lòng. Làm như vậy con sẽ không bị ảo tưởng về chính mình, và cũng sẽ mang tới cho con sự bình an chân thật. Tuy nhiên đây chỉ là một trong các khả năng có thể xảy ra trong cuộc đời con. Hãy chọn chỉ làm những điều khiến trái tim con hát, con sẽ tìm được sự giác ngộ mà con mong muốn.
Đức mẹ trí tuệ – Yeshe Tsogyal
Khi bà vừa nói xong, trên trời nổ ra một hai tiếng sấm to, và tôi tỉnh khỏi giấc mơ. Lúc đó trời đã chiều, có lẽ đó là tiếng sấm từ phía xa, rồi mây kéo đến báo hiệu một cơn mưa. Nhớ như in những lời dạy này, tôi viết lại vào sổ tay của mình. Và từ đó trở đi tôi dùng nó như lời cảnh tỉnh và dẫn đường trong quá trình đi giúp mọi người.
Kể xong giấc mơ của mình, Zangthalpa dừng lại một lúc rồi tiếp tục:
– Khi bạn có những kết quả nhất định trong tu hành, đi giúp mọi người là điều rất tốt để phát triển Bồ đề tâm và trui rèn chính mình. Tuy nhiên, trong quá trình này, hãy cẩn thận khi có những kinh nghiệm tốt. Có thể bất chợt bạn lại trở nên kiêu ngạo và nghĩ rằng mình đã đạt được một kết quả gì đó to lớn. Và khi ấy, do lòng kiêu ngạo thúc đẩy, bạn giúp đỡ người khác bằng những phẩm tính mà mình không có. Như vậy, thay vì khuyên bảo họ một điều đúng đắn, bạn lại khuyên họ một điều sai lầm. Và cuối cùng, chính bạn cũng bị rơi vào vòng luẩn quẩn của nghiệp chướng.
Để minh họa cho điều ấy, tôi xin kể một câu chuyện mà tôi đã nghe được trong quá trình kiếm tiền và du lịch. Chuyện có tên là: Lời nhắn nhủ của vị thiền sư trước lúc lâm chung.
Trong chuyến du hành tới Trung Hoa, tôi gặp một cư sĩ tên là Bàng Long. Một lần, trong khi đàm đạo với ông, nhìn thấy mặt ông có nét suy tư, tôi liền hỏi chuyện. Và ông đã kể với tôi câu chuyện như sau:
– Tôi có quen một thiền sư nổi tiếng. Vị thiền sư ấy là một người bạn thâm giao nhiều năm của tôi, ông bị mắc phải bệnh nan y. Ông rất kiên cường, dùng thiền định mà đối mặt với cái chết, cũng như hàng ngày vẫn tham ngộ về cái chết.
Vốn là bạn tốt của nhau, trước lúc ông qua đời, tôi thường xuyên đến thăm và lắng nghe những lời chỉ bảo từ ông ấy. Mỗi lần tôi đến, thấy ông luôn ngồi ngay ngắn, trên gương mặt tiều tụy luôn mỉm cười. Chúng tôi ngồi xuống nói chuyện, thiền sư nói:
– Cả một đời của tôi đắm chìm trong hư danh. Tuy nhìn bề ngoài rất có tiếng tăm, cũng xuất bản sách, cũng có người theo tôi học Phật, nhưng tôi biết rõ, bản thân mình vốn không thật sự giác ngộ, không thấy được bản tính tự nhiên của mình, bây giờ nghĩ lại mới thấy tưởng thông minh lại bị thông minh hại.
Tôi hỏi:
– Các đấng tôn sư xưa nay, chẳng phải cũng có những người đã đắc Đạo trước lúc lâm chung hay sao?
Thiền sư trả lời:
– Đó là người đại căn khí, tuy giao tiếp với vạn duyên nhưng tâm hồn luôn thanh tịnh, không giống loại tiểu căn khí như tôi. Cả đời này của tôi, chính vì rất thông minh, rất có tài, rất có tình, vì vậy mà có quá nhiều thứ không thể buông bỏ được.
Tôi lại hỏi:
– Thế ông gần đây tu luyện thế nào vậy? Mỗi lần tôi tới, đều thấy ông đang ngồi thiền, tôi cũng không đành lòng quấy rầy ông, chỉ đứng ở bên ngoài niệm Phật, cầu nguyện cho ông!
Thiền sư cười nhạt một tiếng:
– Cảm ơn ông! Về chuyện sinh tử, khi nào chết, thậm chí kiếp sau đầu thai nơi nào, tôi đều đã biết được.
Tôi thắc mắc:
– Thế chẳng phải là ông đã tu được rất cao rồi sao, ông đã biết được khi nào sẽ chết, đầu thai nơi nào, vậy mà còn chưa khai ngộ sao?
Thiền sư có chút hổ thẹn nói:
– Đấy chỉ là chút bản sự cỏn con, không con chút quan hệ gì với khai ngộ cả, càng không có quan hệ với việc tìm được bản lai diện mục, bộ mặt xưa nay của mình. Từ khi 3 tuổi, tôi đã có thể nhớ lại nhân duyên đầu thai của mình. Đời này của tôi từ sớm đã biết rõ bản thân “sống đến từ đâu”, một đời tu hành chỉ là muốn biết được “chết đi về đâu”. Bây giờ có thể biết rõ ngày chết, cũng biết sau khi chết sẽ đi về đâu, chẳng qua vẫn là luân hồi làm chúng sinh trong Tam giới. Cái kiểu tu hành qua loa này nếu đem so với việc đắc Đạo hoặc khai ngộ hoặc nhận ra được bản tính tự nhiên của mình thì hãy còn xa lắm.
Tôi hỏi:
– Vậy sao gần đây ông tinh tấn tu hành vậy?
Thiền sư đáp:
– Một lòng sám hối những nghiệp chướng đó, tịnh hóa từ trong tâm. Tôi là một người sắp chết, mong sao trước khi chết, thanh lọc nội tâm mình, mấy tháng nay tôi không ngừng sám hối. Tôi sám hối cho những nghiệp chướng tôi đã tạo ra, sám hối cho những việc làm sai trái mà tôi đã phạm phải. Sám hối bản thân mình đã không tận hiếu thật sự, sám hối bản thân mình đã làm tổn thương người thân bạn bè, sám hối bản thân đã từng nói rất nhiều lời ngông cuồng, sám hối bản thân đã từng miệng nói một đằng, tâm nghĩ một nẻo, sám hối vì tôi đã làm tổn thương về tâm hồn đối với những cô gái đã từng yêu tôi, sám hối những lời dối trá đối với đồng tu…
Thiền sư đã nói nhiều sự tình cần phải sám hối như vậy, lúc nói ông còn chảy nước mắt. Ông nói với tôi:
– Một người, trước khi lâm chung mà thành tâm sám hối, chính là buông bỏ gánh nặng, nhẹ nhàng mà lên đường.
Nói đến câu này, ông nở nụ cười. Ai cũng biết “lên đường” là có ý gì. Ông muốn tôi tìm một cái thau bằng sắt thật lớn rồi mang những bản thảo trong suốt một đời của ông, cao chừng 1 mét, đốt trước mặt ông. Giúp ông đốt bỏ ư? Tôi không đành lòng, nói:
– Đây vốn là tâm huyết cả đời của ông, có bao nhiêu nhà xuất bản muốn mua bản thảo của ông, cớ sao lại muốn đốt bỏ chứ? Không phải rất tốt sao? Tôi quả thực không muốn đốt.
Thiền sư giải thích:
– Ông không đốt, vậy thì tôi tự mình đốt. Những thứ này không có giá trị gì hết, không đốt bỏ đi thì dùng để làm gì? Tôi không đắc Đạo, những lời giải thích loạn bậy Phật Pháp kia, suy cho cùng đều chỉ là ma chướng, bản thân tôi vốn biết rất rõ. Đốt bỏ những bản thảo này để tránh dẫn thế hệ sau lầm đường lạc lối, cũng là để tránh tăng thêm tội lỗi của tôi. Bản thân không có tìm được Phật tính của mình, thì hết thảy những gì mình nói ra thảy đều là “chồn cáo hoang”, ông muốn tôi bị sa vào địa ngục sao?
Thiền sư trầm tĩnh nói tiếp:
– Tôi cả đời thuyết Pháp giảng Kinh, biện luận thị phi, bởi vì không đắc Đạo, không thấy được chân tướng, nói những lời lộng ngôn cùng những luận giải bất chính, giờ đây, báo ứng tại thân, mắc bệnh nặng tại khoang miệng, thực quản, dạ dày.
Thiền sư đốt từng quyển sách cùng với cư sĩ Bàng Long
Mặt của ông càng ngày càng gầy gò, nhưng nhờ ngồi thiền nên tinh thần vẫn còn đỡ một chút. Tôi cùng với ông đốt từng quyển từng quyển sách một, gồm cả nhật ký của ông, khá nhiều được dùng bút lông ghi, chữ viết vô cùng ngay ngắn. Nhìn dáng vẻ điềm tĩnh và thoát tục của ông tôi rất cảm động, cũng muốn trước khi tôi chết, sẽ giống như ông, đốt hết tất cả nhật ký, bản thảo của mình không lưu giữ những thứ tạp nham, hoàn toàn sạch sẽ, không một chút lo lắng mà rời đi. Tâm tư của tôi vừa động, ông cười:
– Đừng học theo tôi, học tôi không có tiền đồ gì cả.
Nhiều lần tôi đến, thiền sư đều nói là đang sám hối nghiệp chướng, sám hối tội lỗi trong quá khứ, ông nói với tôi:
– Khẩu nghiệp là điều khó sám hối nhất, trong một đời này, tôi giảng Kinh thuyết Pháp, miệng nói ra những lời xằng bậy, nói những điều không phải về người khác, khẩu nghiệp chất cao như núi. Cho dù khẩu nghiệp sâu nặng, tôi vẫn là muốn sám hối cho hết để cái chết được thanh thản. Xem ra, tôi còn phải chết muộn hơn một tháng so với dự tính trước đó, một tháng này chuyên dùng vào việc sám hối khẩu nghiệp. Những người tu Đạo học Phật chỉ nói thôi cũng là tạo nghiệp, huống chi tôi tạo khẩu nghiệp, nói lời không phải, tranh giành đúng sai, nói chuyện không chính đáng, không biết một tháng này có đủ để sám hối không. Chờ tôi sám hối xong rồi, chính là ngày mà tôi sẽ rời đi.
Ông ấy vừa là người bạn, vừa là người thầy trong nhiều năm của tôi nên tôi rất buồn, hỏi ông:
– Ông phải đi rồi, ông có lời khuyên hay cảnh báo sau cùng gì dành cho tôi không?
Thiền sư nói:
– Tôi biết con đường tương lai của ông, nhưng không thể nói ra được, nếu như nói ra thì chính là hại ông vậy. Con đường tương lai ở trong lòng của ông, nếu như vào mỗi buổi tối ông có thể tĩnh tọa nhìn vào trong tâm mình thì cũng sẽ biết được thôi. Kinh nghiệm trong một đời này của tôi, có thể nói cho ông hay, chính là: Nếu như bản thân không có đắc Đạo, không có khai ngộ, không có trực nhận được Bản tính tự nhiên của mình thì quyết không được làm thầy người ta. Làm thầy người ta thì sẽ hại người ta, dẫn người ta đi sai lệch thì cũng chính là làm hại sinh mệnh người đó. Quả báo thật nặng nề, báo ứng của tôi chính ở trước mắt ông đây, vì vậy, quyết không được làm thầy người ta.
Thứ hai, nếu như ông đã khai ngộ, chứng ngộ được Phật tính của mình rồi, thì vẫn cần phải giữ vững chuyện tu hành. Sau khi tu được cao rồi thì mới bước ra hoằng dương Phật Pháp, dẫu cho ông đã có đệ tử, thì cũng hãy nhớ đừng nên tiếp nhận cúng dường, quyết không được ngược đãi đệ tử. Những chuyện trong chốn này tôi đã thấy nhiều rồi, rất nhiều người làm thầy sai khiến đệ tử giống như là đầy tớ vậy, tội ấy rất nặng.
Thứ ba, chớ coi thường bất kỳ người nào không hiểu Phật Pháp, dẫu cho hiểu biết của họ còn non nớt, sai lệch đi nữa thì cũng đều không thể cười nhạo người ta. Tôi trong suốt một đời này đã cười nhạo rất nhiều người có kiến giải sai lệch, kết quả bản thân đã gặp phải báo ứng. Mỗi một người chưa khai ngộ đều có thể là một vị Phật trong tương lai, một khi đã khai ngộ thì chính là Bậc giác ngộ, ông há có thể cười nhạo Bậc giác ngộ? Đạo lý này tôi hiểu, nhưng cái thói xấu xa, bản tính kiêu ngạo dẫn dắt đã rước lấy không ít nghiệp chướng cho mình, hết thảy những gì sám hối trong một tháng gần đây chính là sám hối tội lỗi với những người mà tôi đã từng xem thường trước đây.
Thứ tư, sau này nếu như ông có gặp người khác, cho dù là các tôn sư ngoại đạo đi nữa thì cũng không nên so sánh rằng ai cao ai thấp. Tại cõi người này có vô số Bồ Tát hóa thân dạy bảo người ta, trong ngoại đạo lẽ nào không có được Bồ Tát hóa thân giáo hóa chăng? Không nên mang theo cái tâm phân biệt và thành kiến. Ông hãy một lòng lắng nghe, nhìn vào bên trong mình, trí huệ bên trong sẽ tự sinh ra, sinh mãi không ngừng. Bản thân tôi trước đây rất thích tranh luận, rất thích tranh đấu với người ta, lấy ngòi bút làm vũ khí, kết quả bản thân mắc phải ung thư vòm họng, ung thư thực quản, tội nghiệp quả thật là sâu nặng thay.
Miệng ông đang nói, còn nước mắt thì không ngừng rơi, đó chính là những giọt nước mắt ân hận, giọt nước mắt thức tỉnh, cũng là những giọt nước mắt khuyên răn. Ông ấy nhìn tôi:
– Đã nhớ chưa?
Tôi nói:
– Nhớ rồi.
Bàng Long chầm chậm nói tiếp:
– Trong mười năm nay tôi cũng có một chút hư danh, đôi lúc cũng có một số người tìm đến bái tôi làm thầy, tôi nhớ kỹ lời dạy của thiền sư, trước giờ chưa từng nhận qua đồ đệ. Có người quỳ xuống dập đầu bái lạy tôi, tôi cũng vội vàng quỳ xuống dập đầu bái lạy lại. Đây đều là những lời dạy bảo của thiền sư ấy.
Một tháng sau gặp lại, thiền sư nói:
– Tôi phải ra đi rồi, vẫn là tái sinh ở vùng Tây Bắc. Vùng đó tuy nghèo, nhưng con người thật thà chất phác, gốc rễ của tâm linh Phật, Đạo rất sâu, không giống như người phía Nam, dùng Phật, Đạo để kiếm tiền. Cũng không giống như những người Đông Bắc, thực chất bên trong vốn không hề tôn kính Phật. Tôi chuyển sinh vào vùng Tây Bắc, nếu như hai anh em chúng ta có duyên, ba mươi năm sau, còn có thể gặp lại, khi ấy ông là anh cả, tôi là em trai, ông cần phải giúp tôi đấy nhé!
Chúng tôi đều cười. Tôi đáp:
– Khi tôi học thiền với ông không có thăng tiến, ông đã từng đá tôi, lúc đó cũng là lúc tôi phải đá lại ông rồi. Thiền sư dặn dò:
– Nếu được thì hãy cứ đá mạnh một chút, mong sao dưới một cú đá này, tôi sẽ khai ngộ ngay lúc đó.
Khi Bàng Long kể đến đây, mắt ông lại nhìn ra phía xa xăm:
– Thiền sư thật sự đã ra đi vào đúng cái ngày ông ấy nhận định, nhục thể được hỏa táng. Tôi lấy một chút tro cốt của ông mang theo lúc chuyển nhà.
Zangthalpa ạ, khi tôi kể với ông chuyện này, thiền sư ấy đã viên tịch hơn mười năm rồi. Nghĩ về chuyện tu hành của bản thân thì thật không khỏi cảm thấy xấu hổ. Vị thiền sư đó là ai vậy? Tôi không muốn nói ra tên của ông ấy, ông ấy đã đốt bỏ toàn bộ bản thảo của mình thì cũng tức là không muốn ai nhớ đến ông ấy nữa. Tôi tin tưởng rằng sẽ có một ngày, tôi sẽ gặp lại ông ấy giữa biển người mênh mông.
—
Sau khi kể xong câu chuyện, sắc thái có chút nghiêm nghị, Zangthalpa đưa mắt nhìn đại chúng một lượt rồi kết luận:
– Tuy nói rằng bạn nên thực hành lý tưởng Bồ tát, nghĩa là đi giúp người khác đạt được hạnh phúc và giác ngộ, thế nhưng việc đi giúp người khác cũng cần phải cân nhắc kỹ xem khả năng của mình có thực sự giúp được họ hay chưa? Có câu “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuỳ theo sức của mình”, bạn phải biết trình độ tu hành của mình ở đâu để giúp người ở mức độ phù hợp. Nếu hiểu biết và kinh nghiệm đến đâu, chỉ nên hướng dẫn người ta đến đấy, và khuyến khích người ta tìm đến bậc chân sư mà theo học. Nếu bạn vội vã đi dạy dỗ người khác khi mình còn chưa chứng ngộ, thì việc đó nhiều khi mang lại kết quả ngược. Không những không giúp được ai mà còn hại mình, hại người như câu chuyện kể trên.
Đọc tiếp Zangthalpa – Phần 17: Tu giữa đời thường có giác ngộ được không?
Mời các bạn quan tâm đến Truyện cổ tích Zangthalpa:
– Theo dõi các phần Audio của truyện Zangthalpa tại đây.
– Theo dõi các phần Video của truyện Zangthalpa tại đây.
– Theo dõi các truyện Zangthalpa mới nhất tại đây.
– Xem mục lục các truyện Zangthalpa tại đây.